Các trận lũ lớn ở Miền Bắc Việt Nam

From Wikipedia, the free encyclopedia

Các trận lũ lớn ở Miền Bắc Việt Nam
Remove ads

Miền Bắc Việt Nam có vị trí cận chí tuyến, thường chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới và các hình thế khác, tập trung nhiều tâm mưa lớn nên khu vực thượng nguồn nước lên nhanh, và tạo ra lũ lớn đổ về vùng đồng bằng trong mùa mưa bão. Các triều đại phong kiến Việt Nam cũng như chính quyền thực dân Pháp trong thời kỳ thịnh trị cũng luôn quan tâm đến việc chăm sóc đê điều tại miền Bắc. Từ sau khi giành độc lập năm 1945, nhà nước Việt Nam đã có nhiều chính sách nâng cấp hệ thống đê điều và xây dựng các thủy điện Sơn La, Hòa Bình, Thác Bà,... nhằm điều tiết lũ.

Thumb
Ngập lụt tại Hà Nội trong trận lũ, lụt năm 2008

Trong lịch sử đã có nhiều trận lũ lớn xảy ra ở miền Bắc, đỉnh điểm là năm 1945 và năm 1971 gây thiệt hại nặng nề. Các năm 1996, 2024, 2025 chịu ảnh hưởng của thiên tai kép (bão, lũ), đặc biệt trong hai năm 2024 và 2025 lũ nhiều nơi cùng vượt lịch sử gây thiệt hại nặng. Về úng lụt đô thị, nghiêm trọng nhất là trận ngập lụt tại Hà Nội năm 2008.

Remove ads

Thế kỷ 19

Các trận lụt trong thời kỳ nhà Nguyễn (1802-1884)

Cuối thế kỷ 18, do chiến tranh loạn lạc, đê điều không được bảo vệ, chăm sóc thường xuyên, nạn vỡ đê vì thế ngày càng trở nên trầm trọng. Dưới thời Nguyễn, từ năm 1803 đến năm 1857, Bắc Kỳ xảy ra 26 đợt lũ, lụt, vỡ đê.[1] Các năm 1803, 1804, 1806, 1819, 1828, 1833, 1840, 1842, 1844, 1847, 1856, 1857 hầu như cả vùng đồng bằng Bắc Kỳ bị ngập lụt, theo đó là mất mùa, đói kém.[2]

Dưới triều vua Tự Đức, đê Văn Giang (Hưng Yên) vỡ 18 năm.[3][4] Theo tờ La Dépêche coloniale illustrée, giai đoạn từ năm 1870 đến 1896, có 8 trận lụt do vỡ đê, mỗi trận lụt gây thiệt hại 5.400.000 picul (picul: đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, tương đương khoảng 50kg), tương đương 372.000 tấn thóc.[5] Đại Nam Thực lục chép miền Bắc xảy ra các trận lũ, lụt lớn trên diện rộng vào tháng 8 âm lịch năm 1864 (Ninh Bình, Nam Định, Hà Nội, Bắc Ninh),[6] trận bão lụt xảy ra vào tháng 8 (âm lịch) năm 1874 tại toàn Bắc Kỳ, bão lụt tháng 8 (âm lịch) năm 1883 (Hà Nội, Hưng Yên, Hưng Hóa, Nam Định, Ninh Bình).[7] Trận lũ lịch sử xảy ra tại Bắc Kỳ vào tháng 6 năm Tân Mùi (1871) đã khiến cho đê ở nhiều địa phương như Hà Nội, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định đều bị vỡ. Bảy huyện quanh Hà Nội chịu thiệt hại nặng nhất là Tiên Phong, Thạch Thất, Mỹ Lương, Yên Sơn, Phúc Thọ, Bất Bạt, Tùng Thiện, nhiều nơi chết đói, số khác bỏ làng đi xiêu tán.[6][8]

Trận lụt năm 1893

"Lụt Quý Tỵ", vỡ đê Nhị Hà ở sông Hồng.[9] Đình Vân Điềm ở Hà Nội bị hư hỏng nặng.[10] Bài thơ "Lụt năm Bính Ngọ" của Trần Tế Xương có câu: "Con thuyền Quý Tỵ nhớ năm xưa"; có thành ngữ "Lụt Quý Tỵ". Trận lụt năm 1893 đã cuốn con đập chặn sông Đuống dù Pháp mới lấp sông Đuống chỉ một năm trước đó.[11]

Remove ads

Thế kỷ 20

Thêm thông tin Hệ thống sông, Sông ...

Trận lụt năm 1905

Đêm 28 ngày 29 tháng 9 năm 1905 bão Cantabria đổ bộ vào Nam Định (nay là Ninh Bình) gây mưa lớn và ngập lụt nghiêm trọng. L'Avenir du Tonkin mô tả, ngày 29 tháng 9 Hà Nội mưa 102,2 mm, "đê Kim Bảng bị vỡ", "hầu hết các ngôi nhà chìm trong biển nước", "nước đã tràn vào tất cả các cánh đồng lúa và cây lúa đã thối rữa trên mặt đất". Vỡ đê sông Hồng. Nguyễn Khuyến có bài thơ "Vịnh nước lụt" để nói về trận lụt này, so sánh với trận lụt năm 1893: "Tỵ trước Tỵ này chục lẻ ba/ Thuận dòng nước cũ lại bao la/ Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách/ Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà/ Bắc bậc người còn chờ chúa đến/ Đóng bè ta phải rước vua ra/ Sửa sang việc nước cho yên ổn/ Trời đã sinh ra ắt có ta".[13] Ngoài ra ông còn có bài thơ "Nước lụt Hà Nam" “Quai Mễ Thanh Liêm đã lở rồi/ Vùng ta thôi cũng lụt mà thôi/ Gạo dăm ba bát cơ còn kém/ Thuế một vài nguyên dáng vẫn đòi. Mùa màng thất bát, nhiều người chết đói.[14] Vụ mùa tháng 10 tại Bắc Kỳ bị xem là "coi như mất trắng", hệ quả là giá gạo "tăng gấp đôi" so với trước khi có bão lụt. Lũ muộn trên sông Hồng trong đợt mưa bão này có đỉnh lên đến 10,36m vào ngày 4 tháng 10 năm 1905 tại trạm Hà Nội. Mức độ thiệt hại về lúa mùa do bão lụt tại các địa phương phổ biến 35–55%. Giao thông từ Hà Nội đi Nam Định, vốn đã gián đoạn từ tháng 8, tiếp tục gián đoạn đến đầu tháng 11 năm 1905. Điều này được cho là hệ quả của việc trước đó ba tháng 6, 7, 8 "mưa ở vùng châu thổ không đủ cho mùa màng".[1][15][16][17]

Trận lụt năm 1913

Tháng 8, trên hệ thống sông Hồng, Thái Bình, xảy ra lũ lớn cả miền núi, trung du và đồng bằng, gây vỡ đê ngập lụt trên diện rộng ở đồng bằng Bắc Bộ. Ngày 9 tháng 8 năm 1913, khi lũ tại Hà Nội là 11,35 m đã vỡ đê sông Hồng, đoạn ở tỉnh Vĩnh Phúc trên 2 đoạn phía tả ngạn tại Nhật Chiên, Cẩm Viên và Hải Bối, Yên Hoa thuộc Phúc Yên; vỡ đê Phu Chu thuộc tỉnh Thái Bình. Ngày 14/8, khi lũ Hà Nội xuống mức 10,69 m vẫn vỡ đê Lương Cổ, tả ngạn sông Đáy thuộc tỉnh Hà Nam. Ngày 17 tháng 8, vỡ đê Phương Độ, Sơn Tây phía hữu ngạn sông Hồng khi mực nước Hà Nội là 11,11m. Ngày 18/8, vỡ đê Nghĩa Lộ phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam, khi mực nước Hà Nội 11,03 m. Ngày 19 tháng 8, vỡ đê Quang Thừa, Lỗ Xá sông Đáy phía hữu ngạn thuộc tỉnh Hà Nam, khi mực nước Hà Nội 10,99m. Nước lũ làm ngập gần hết tỉnh Vĩnh Phúc (cũ), một phần Hà Tây, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình và Bắc Ninh. Tổng diện tích lúa bị ngập là 307.670 ha, trong đó mất trắng 118.640 ha. Lụt đã gây tổn thất nhiều tài sản và nhà cửa, hầu hết các đường giao thông 1A, 2, 3, 10, 11A, 13A, 18; đường sắt Hà Nội - Hải Phòng bị ngập đoạn gần thị xã Hải Dương.[18]

Trận lụt năm 1915

Tháng 8 năm 1915, đê bị vỡ liên tiếp 48 chỗ với tổng chiều dài 4180 m (mặc dù từ 11 đến ngày 20 tháng 7 năm 1915 khi mực nước Hà Nội cao nhất đạt 11,55 - 11,64m, chỉ trên báo động 3 một chút).[11] Đỉnh lũ hoàn nguyên tại Hà Nội là 12,92m. Những nơi vỡ chính như: Xâm Dương, Xâm Thị đê hữu sông Hồng thuộc tỉnh Hà Đông. Các chỗ vỡ khác như Lục Cảnh, Hoàng Xá, Trung Hà tỉnh Phúc Yên; Phi Liệt, Thủy Mạo tỉnh Bắc Ninh. Đê tả sông Hồng, vỡ ở: Mễ Chân tỉnh Hưng Yên; Gia Quất, Gia Thượng, Phú Tòng, Yên Viên, Đông Thụ, Danh Nam tỉnh Bắc Ninh và một số chỗ khác trên sông Phó Đáy, Đuống và sông Đáy,...[18]

Lũ làm ngập lụt toàn bộ các tỉnh hữu ngạn sông Hồng như Hà Nội, Hà Đông, Hà Nam, Nam Định và phía tả ngạn: toàn bộ tỉnh Bắc Ninh, một phần tỉnh Vĩnh Phúc và vùng Bắc Hưng Hải ở phía bắc đường quốc lộ 5. Lụt đã uy hiếp Hà Nội, Hà Đông và Nam Định. Đường xe điện Hà Nội- Hà Đông phải ngừng chạy. Nhà máy dệt Nam Định phải ngừng hoạt động. Các đường Quốc lộ 1, 2, 3, 5, 6, 11A và các đường liên tỉnh đều bị ngừng trệ. Diện tích đất canh tác bị ngập lên tới 325.000 ha, trong đó mất trắng 221.000 ha lúa.[18] 200 người bị chết đuối.[11]

Trận lụt năm 1926

Thumb
Nước lũ lụt tràn lên tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng trong trận lụt năm 1926

Ngày 29 tháng 7 năm 1926, khi mực nước Hà Nội lên tới 11,93 m thì vỡ đê tả ngạn sông Hồng vùng Gia Quất, Ái Mộ, Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh; vỡ đê hữu ngạn sông Luộc tại Hạ Lao, Văn Quán tỉnh Thái Bình; vỡ đê tả ngạn sông Luộc tại Bô Dương, tỉnh Hải Dương. Tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt do vỡ đê khoảng 100.000 ha.[18]

Gần như các tỉnh đồng bằng Bắc Kỳ bị nhấn chìm trong nước lũ, nhiều tuyến đường sắt và giao thông huyết mạch bị sạt lở, thiệt hại ước tính do lũ lụt và vỡ đê gây ra năm 1926 khoảng 20 triệu đồng bạc Đông Dương.[19]

Trong tháng 8 năm 1926, tổng lượng mưa tại Hải Phòng ghi nhận lên tới 1067mm.[20][21]

Trận lụt năm 1929

Lũ lên trên hệ thống sông Thái Bình khiến nhiều tuyến đê sông Thương, sông Cầu bị vỡ. 126.000ha lúa mất trắng và nhiều nhà cửa bị lũ nhấn chìm.[19]

Trận lụt năm 1937

Ảnh hưởng liên tiếp của các cơn bão đổ bộ vào miền Nam Trung Quốc và Bắc Trung Kỳ trong giai đoạn cuối tháng 8 và tháng 9 năm 1937 khiến Bắc Kỳ có mưa lớn. Tổng lượng mưa tháng 9 năm 1937 tại Hà Nội là 580mm,[20] Hưng Yên 629mm, Thái Bình 555mm, Nho Quan 647mm.[21] Lũ lịch sử xảy ra trên sông Thương tại Cầu Sơn (Bắc Giang) với đỉnh lũ 17,61m (sau bị năm 2008, 2025 phá vỡ).[22] Mực lũ đo được trên sông Thái Bình cao hơn mực lũ năm 1926 là 0,98cm. Nhiều tuyến đê thuộc sông Thương, sông Lục Nam và cả sông Đuống bị vỡ.[19] Các trận mưa lớn dồn dập khiến nước sông lên cao, nhưng không có bất kỳ cảnh báo lũ nào. Lũ lụt xảy ra nghiêm trọng, 40 vạn dân lâm vào cảnh màn trời chiếu đất, báo chí truyền thông Đông Dương đưa tin rất nhiều.[23] 148.000 hecta ruộng lúa thuộc các tính Bắc Ninh, Bắc Giang, Hái Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Sơn Tây, Phú Thọ và Phúc Yên đều bị lũ ngập. Nạn nhân của thiên tai lên đến 732.000 người, trong đó chừng 300.000 nhà nông bị mất trắng mùa màng. Tại 6 huyện của tỉnh Bắc Ninh, có chừng 150.000 nông dân đói, phải đi xin ăn.[24]

Trận lụt năm 1945

Lũ to với mực nước thực đo tại Hà Nội là 12,68 m[19]mực nước hoàn nguyên là 14,05 m. Ngày 16 tháng 8, khi mực nước Hà Nội lên tới mức 11,45 m thì đê phía hữu ngạn sông Thao bị vỡ ở khu vực huyện Lâm Thao. Đến 13 tháng 9, hầu hết các tuyến đê sông Đà, Thao, Lô, Hồng, Phó Đáy, Đáy, Đuống, Cầu, Thái Bình và đê sông Hoá đều bị vỡ. Tổng cộng có 52 chỗ vỡ, gây ngập lụt 11 tỉnh, không kể các tỉnh trung du và miền núi. Tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt là 312.000ha. Hàng triệu dân vùng đồng bằng bị ảnh hưởng trực tiếp của ngập lụt. Thiệt hại tương đương với 14,3 triệu tấn thóc.[18][19]

Trận lụt năm 1968

Tháng 8 năm 1968, Bắc Bộ chịu ảnh hưởng liên tiếp của 2 cơn bão, số 3 đổ bộ vào Quảng Ninh hồi 22h ngày 7 tháng 8 và bão số 4 vào Văn Lý, Nam Định ngày 14 tháng 8. Mưa bình quân lưu vực sông Hồng là 278 mm. Mưa tại Sa Pa là 533 mm, Yên Bái 544 mm. Lũ đặc biệt lớn, kéo dài nhiều ngày trên báo động 3 xảy ra ở sông Hồng và Thái Bình. Đỉnh lũ tại Hà Nội là 12,23 m, vượt báo động 3 là 0,73 m, duy trì trên báo động 3 trong 4 ngày. Mưa, lũ đặc biệt lớn kết hợp với nước biển dâng do gió bão và mưa lớn nội đồng đã uy hiếp nghiêm trọng hệ thống đê sông ở đồng bằng và đê biển: đê bối hữu ngạn sông Thao bị vỡ nhiều đoạn, nặng nhất là đoạn Vực Trường phía trên Phú Thọ 1 km và tràn, vỡ nhiều chỗ vùng Tam Nông, Thanh Thủy dưới Phú Thọ; ngày 14 tháng 8, tràn, vỡ đê tả ngạn sông Hồng thuộc huyện Yên Lãng, Yên Lạc, Vĩnh Tường; 1h ngày 16, vỡ đê bối Khuyến Lương, Thanh Trì, Hà Nội. Trên hệ thống đê Thái Bình: ngày 13 và 14 nhiều đoạn đê bối, đê địa phương bị tràn vỡ như đoạn Thanh Hà, Chi Nhị, Lai Nguyễn, Cao Đức, Ba Xã, Ba Tổng, Chí Linh, Phú Lương và Yên Dũng; ngày 15, vỡ đê Nam Đồng tỉnh Hải Dương, Tân Biển tỉnh Bắc Giang. Mưa, lũ lụt lớn trên sông Hồng và Thái Bình đã gây thiệt hại rất nghiêm trọng. Tổng diện tích úng lụt ở đồng bằng Bắc Bộ là 214,854 ha lúa.[18]

Trận lụt năm 1969

Từ ngày 6 đến ngày 17 tháng 8, mưa lớn từ 400 – 500 mm ở thượng nguồn sông Đà, sông Hồng, sông Lô. Trên sông Hồng - Thái Bình xảy ra lũ rất lớn, trên mức báo động 3. Mực nước đỉnh lũ tại Hà Nội là 13,22 m (13 giờ ngày 18 tháng 8) vượt báo động 3 là 1,72m, thời gian duy trì trên báo động 3 tới 10 ngày. Đỉnh lũ tại Phả Lại là 6,48m ngày 20 tháng 8, vượt báo động 3 là 0,98 m, thời gian duy trì mức lũ trên báo động 3 là 11 ngày. Xảy ra vỡ đê bối, phân lũ sông Đáy và diện ngập lụt. Khi mực nước Hà Nội lên 13,1 m, đã mở cống Vân Cốc phân lũ vào sông Đáy, lưu lượng ban đầu là 600 mét khối trên giây lưu lượng phân lũ lớn nhất đạt 1700 mét khối trên giây. Lũ lớn đã làm tràn vỡ hầu hết các đê bối hạ lưu sông Thao, Hồng và Thái Bình. Lúc 13h ngày 14, vỡ đê bối Cự Khối, Tàm Xá phía đê tả, dưới Hà Nội; lúc 1h ngày 16, vỡ đê bối Thanh Trì; lúc 2h ngày 18, vỡ đê bối Văn Giang, Hưng Yên; lúc 17h ngày 17, vỡ đê Châu Cầu gần cửa ra sông Đuống. Vỡ đê bối kết hợp với mưa lớn nội đồng làm tổng diện tích ngập lũ và úng ở đồng bằng Bắc Bộ lên đến 95.782 ha, trong đó Hà Nội 12.170 ha, Hà Tây và Hòa Bình 19.912 ha, Hải Dương và Hưng Yên 32.260 ha và Nam Hà 31.440 ha.[18]

Chủ tịch Hồ Chí Minh trước khi mất cũng đã quan tâm đến tình hình mưa lũ miền Bắc khi hỏi: "Nước sông Hồng đã xuống chưa?".[25] Trước nguy cơ đê sông Hồng có thể vỡ, để đảm bảo an toàn, một số vị lãnh đạo đã khuyên Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sơ tán, song theo các tài liệu ghi lại được thì Hồ Chí Minh đã nói: “Bác không đi đâu, Bác ở với dân, các chú đừng để lụt, đừng để vỡ đê”.[19]

Trận lụt năm 1971

Mưa lớn nhiều ngày, nước trên các triền sông dâng rất cao. Áp lực nước tăng nhanh, gây nguy cơ vỡ đê. Lụt khắp miền Bắc Việt Nam. Đây là trận lụt thuộc loại lớn nhất thế kỷ 20.[18]

Trận lụt năm 1973

Ảnh hưởng liên tiếp của các trận bão, từ ATNĐ, bão số 5, 6, 7, 8 đổ bộ vào các tỉnh từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa trong giai đoạn cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1973 đã gây mưa lớn kéo dài. Tổng lượng mưa tháng 9 tại Thái Bình đến Hà Tĩnh phổ biến 900 - 1.000mm, riêng Vinh (Nghệ An) 1.610mm, Hà Nội 472mm. Tổng diện tích bị úng ngập ở cả Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ là 39 vạn ha (riêng lúa là 37,6 vạn ha, trong đó 33 ha úng nội đồng).[26] Đỉnh lũ sông Hồng tại Hà Nội lên 11,00m (mức báo động cấp 2).[27]

Trận lụt năm 1978

Từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 năm 1978, Bắc Bộ xảy ra trận lũ lụt nghiêm trọng trên nhiều sông. Bắc Bộ chịu tác động của không khí lạnh và hoàn lưu các xoáy thuận (tàn dư bão số 8 đổ bộ vào Huế sáng ngày 20/9 sau sang Lào, Thái Lan; bão số 9 Kit đổ bộ Bình Trị Thiên ngày 26 tháng 9). Đã gây ra một trận lũ lụt lớn.

Lũ sông Hoàng Long rất lớn, đỉnh lũ sông Đáy đoạn Phủ Lý-Ninh Bình đều trên báo động 3, tại Phủ Lý là 4,44m (ngày 24 tháng 9), cao hơn đỉnh lũ năm 1971 khi có phân lũ sông Đáy, tại Bến Đế là 5,42m (ngày 22 tháng 9) cao hơn báo động 3 và 5 ngày. Mưa lớn, mức kỷ lục năm 1978 là 318 mm. Đê hữu sông Hoàng Long bị tràn vỡ 5 đoạn: ở làng Sui, làng Môi, Đồi 94, Đập Lạc Khoái, Văn Trình với tổng chiều dài 565m, sâu từ 1,3 - 1,8 m. Đê tả Hoàng Long bị vỡ đoạn Đầm Cút, dài 240 m, sâu 1,2 m. Lụt, úng gây thiệt hại nghiêm trọng tại Hà Sơn Bình, Hà Nội, đặc biệt là Hà Nam Ninh: 21 xã bị ngập lụt; 3 người chết, 50.000 người phải sơ tán khỏi vùng ngập sâu; ngập và hư hại 13.000 ngôi nhà,.... Tổng diện tích ngập lụt úng là 96.000ha, trong đó lúa bị mất trắng là 48.000ha.[18]

Ít ngày sau do ảnh hưởng trực tiếp của bão số 10 (Lola) đổ bộ vào Tiên Yên, Quảng Ninh rạng sáng 3 tháng 10 sau đó di chuyển theo hướng tây qua các tỉnh Bắc Giang, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Phú Thọ,...; mưa xuất hiện từ 100 đến 200mm ở hầu hết vùng núi, trung du, phía bắc đồng bằng Bắc Bộ. Tâm mưa lớn từ 200¸500mm thuộc lưu vực sông Công và sông Phó Đáy. Riêng ngày 4 tháng 10, mưa tại Kỳ Phú 496mm, Đại Từ 439mm, Phổ Yên 249mm, Quảng Cư 352mm, Phúc Yên 262mm,... Tổng lượng mưa cả đợt từ ngày 2 đến 5 tháng 10, bình quân trên lưu vực sông Công là 480mm, sông Phó Đáy 300mm. Lũ lên, xuất hiện trận lũ lịch sử trong tháng 10 trên các sông con ở phía bắc đồng bằng Bắc Bộ: Trên sông Công, lũ lịch sử, lũ quét ở Đại Từ, lũ làm đổi dòng các suối; đập tràn hồ Núi Cốc cũng bị sạt lở và vỡ, gây thiệt hại rất lớn về người và của ở huyện Đại Từ. Nhiều nhà cửa, cầu cống và hoa màu ở vùng Đại Từ bị quét sạch, diện tích lúa bị ngập trôi là 318ha. Trên sông Phó Đáy, xuất hiện lũ lịch sử. Đỉnh lũ tại Quảng Cư đến 31,61m vào ngày 4 tháng 10, cao hơn đỉnh lũ 1971 là 0,35m. Do lũ lớn, kéo dài gây ngập lụt nghiêm trọng ở hai ven bờ sông và ngập úng vùng hạ lưu sông Phó Đáy thuộc huyện Tam Đảo, Mê Linh, Vĩnh Lạc. Diện tích lúa bị ngập lụt là 60.000 ha, trong đó 3.000ha bị mất trắng.[18]

Hình ảnh trận lụt năm 1978 cũng được cho là cảm hứng để một sinh viên (hoặc kỹ sư) xây dựng sáng tác bài thơ "Chị tôi", đến những năm 1980 được nhạc sĩ Trần Tiến phổ nhạc thành bài hát cùng tên rất nổi tiếng.

Trận lụt năm 1986

Từ 13 đến 28 tháng 7 năm 1986, ảnh hưởng của tàn dư bão số 2 (Peggy), bão số 3 (Không tên), dải hội tụ nhiệt đới và cao áp Thái Bình Dương đã gây mưa nhiều ngày tại miền Bắc.[18] Mức lũ đo được trên sông Đà tại Hòa Bình là 23,45 m, trên sông Hồng tại Hà Nội là 12,36 m, đây là mức lũ cao nhất kể từ năm 1972, trên sông Lô tại Tuyên Quang là 29,72 m, trên sông Thái Bình tại Phả Lại là 6,95 m.[19] Đặc biệt, lũ lịch sử đã ghi nhận trên sông Trung tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) và sông Thương tại Phủ Lạng Thương (Hà Bắc cũ) trong đợt lũ này (bị phá năm 2025).[28]

Lũ đặc biệt lớn đã gây sạt lở, tràn, vỡ nhiều đê bối, đê địa phương thuộc các tỉnh thành như Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, Hà Nội, Hà Bắc, Hải Hưng, Hà Nam Ninh... Mưa, lũ gây thiệt hại nhiều cho các tỉnh miền núi và trung du như: Hà Tuyên, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Lai Châu, Quảng Ninh, Vĩnh Phú và Hà Sơn Bình. Hàng chục ngàn hecta lúa và hoa màu bị ngập và mất trắng. Nhiều đoạn đường quốc lộ bị ngập, sạt lở và trôi đá. Nhiều hồ chứa, đập đất địa phương bị tràn, vỡ do lũ cao. Lũ lụt làm chết 121 người; sập, trôi 491 nhà; ngập 12.571 nhà.[18]

Trận lụt năm 1994

Ảnh hưởng của các cơn bão số 6 (Harry) và số 7 (Joel) đổ bộ vào Quảng Ninh, số 8 (Luke) yếu thành vùng thấp ở vùng biển Thanh Hóa, Nghệ An đã gây ra một đợt mưa lũ kéo dài ở Bắc Bộ vào cuối tháng 8 và đầu tháng 9 năm 1994. Ba đợt mưa lớn từ 28 đến 31 tháng 8, 5 đến 8 tháng 9 và 13 đến 16 tháng 9 với lượng mưa lớn từ 100-350mm/đợt, có điểm mưa cao hơn (đợt giữa tháng 9).[29]

Một trận lũ đã xảy ra trên sông Hồng, Thái Bình và lũ lớn trên các sông khác. Mực nước sông Hồng tại Hưng Yên, lên đến 5,65m ngày 1 tháng 9, cao hơn báo động 1; tại Phả Lại lên đến 4,73m tối ngày 31 và cao hơn báo động 2. Do lũ sông Bùi, sông Tích, mực nước tại Ba Thá trên sông Đáy lên đến 6,00m, tại Phủ Lý lên đến 4,41m ngày 1 tháng 9 và vượt báo động 3 0,31m và cao hơn mức nước 1971 - năm có phân lũ qua đập Đáy, là 39 cm. Mực nước ở Hưng Thi trên sông Hoàng Long lên đến 13,46m ngày 30, tại Bến Đế lên đến 4,09m ngày 31, vượt báo động 3 là 9 cm. Trong khi đó, thuỷ triều vịnh Bắc bộ đang ở giai đoạn triều cường. Do mưa lớn, cường độ lớn trong đồng với lũ trên hệ thống sông Hồng, Thái Bình, Đáy (sông Bùi, sông Tích, sông Nhuệ, sông Hoàng Long có lũ lớn) lại gặp triều cường nên đã gây úng lụt nghiêm trọng ở các tỉnh Vĩnh Phúc, Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên,... Nội thành Hà Nội nhiều nơi ngập sâu 0,5m-1,0m, thậm chí trên 1,0m trong nhiều ngày. Ngập úng lụt làm các đường liên xã, liên huyện, liên tỉnh bị hư hại nặng, nhiều đoạn đường quốc lộ số I cũng bị hư hại. Nhiều kênh mương, đê, kè, cống và các hồ chứa nhỏ, mương phai cũng bị hư hỏng nặng. Thiệt hại do đợt mưa úng lụt này ở đồng bằng Bắc bộ lên tới hàng trăm tỉ đồng.[18]

Trận lụt năm 1996

Tháng 7 và 8 năm 1996, miền Bắc chịu sự đổ bộ trực tiếp của bão Frankie số 2, Niki số 4 và áp thấp nhiệt đới ngày 14 tháng 8 đã gây ra mưa nhiều, đặc biệt là đợt mưa từ 11 đến 24 tháng 8 do áp thấp nhiệt đới và bão số 4 Niki đã gây ra lụt ở miền Bắc, nước sông dâng cao nhiều ngày, nước ứ đọng trong nội thành gây ngập lụt ở nhiều điểm.[30] Lũ đặc biệt lớn xảy ra ở hạ lưu sông Hồng, Thái Bình và Hoàng Long. Đỉnh lũ thực đo tại Hà Nội là 12,43m (hoàn nguyên là 13,30m) lúc 19 giờ ngày 21, trên báo động 3 là 0,93m, duy trì cấp báo động trong 6 ngày; tại Phả Lại là 6,52m lúc 7 giờ ngày 22 tháng 8, vượt báo động 3 là 11,02m, duy trì mức báo động 3 trong 7 ngày; tại Bến Đế là 4,79m sáng 16 tháng 8, trên báo động 3 là 0.79m. Bão số 4 đổ bộ vào Thanh Hoá, Ninh Bình gây nước biển dâng thêm 1¸2m: tại cửa Ba Lạt ngày 23 tháng 8 dâng cao thêm 1 đến 1,2m; tại Đông Xuyên, dâng thêm khoảng 2,0m. Nước dâng đã cản trở tiêu thoát lũ sông Hồng, Thái Bình ở sườn lũ xuống.[31][18] Lũ sông Đà được ghi nhận lớn nhất trong lịch sử 100 năm đến thời điểm đó, mực nước hồ Hòa Bình lên tới 98 m.[19]

Lũ đặc biệt lớn kéo dài nhiều ngày trên mức báo động 3 đã uy hiếp nghiêm trọng toàn bộ hệ thống đê đồng bằng Bắc Bộ, hầu hết các đê bối, đê địa phương thuộc Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hà Tây, Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Ninh Bình đều bị tràn hoặc vỡ. Đặc biệt, vỡ đê sông Gùa làm ngập 6 xã huyện Nam Thanh, Hải Dương; phá đê Đức Long sông Hoàng Long tối ngày 15 tháng 8 làm ngập 2 xã; tràn đập Lạc Khoái sông Hoàng Long sáng ngày 16. Lũ đặc biệt lớn, nước dâng, áp thấp nhiệt đới và bão số 4 làm chết và mất tích 61 người, bị thương 161 người; nhà, trường học, bệnh xá, bệnh viện đổ là 7465 cái; hư hại, ngập trên 172.876 cái; lúa và hoa màu bị ngập, hư hại 104.504 ha; thiệt hại lớn về công trình thủy lợi, giao thông, năng lượng,...[31]

Remove ads

Thế kỷ 21

Trận lụt năm 2002

Mưa lớn nhiều ngày trong khoảng tháng 8, làm lũ lên nhanh. Đêm 18 tháng 8, mức lũ hạ lưu sông Hồng và sông Thái Bình đã đạt đỉnh. Tại Hà Nội là 12,01 m, trên báo động 3 0,51m; tại Hưng Yên là 7,66 m, trên báo động 3 là 56 cm; tại Triều Dương là 6,57 m, trên báo động 3 là 47 cm; tại Nam Định là 4,48 m, trên báo động 3 là 8 cm; tại Phả Lại là 5,72 m, trên báo động 3 là 22 cm; tại Lục Nam là 5,59 m; tại Đáp Cầu là 5,7 m; tại Phủ Lạng Thương hay Bến Bình đều dưới báo động 3 từ 5 đến 21 cm. Hệ thống cống thoát đang cải tạo dở dang nên càng không thoát nước nổi, gây ngập úng trong nội thành suốt nhiều ngày liên tục. Nhiều sự cố đê kè xuất hiện tại miền Bắc. Đây là năm có lũ báo động 3 gần nhất trên sông Hồng tại Hà Nội tính đến năm 2025.[32]

Trận lụt năm 2008

Ngập trên diện rộng, rất sâu do mưa liên tục với cường độ lớn từ đêm 30/10/2008 trở đi. Tổng lượng mưa trong thời gian từ đêm 30 tháng 10 đến chiều 3 tháng 11 ở các tỉnh Bắc Bộ phổ biến từ 100 đến 500 mm, cá biệt có nơi gần 1.000 mm. Ðây là đợt mưa lớn, hiếm thấy cả về diện rộng và cường độ ở khu vực đồng bằng, trung du Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ khi thời tiết ở Bắc Bộ đã bước vào mùa khô hanh, một số công trình thủy nông bắt đầu tổ chức bảo dưỡng thiết bị, chuẩn bị tổng kết công tác mùa mưa lũ 2008. Trận mưa lịch sử đã làm nhiều khu vực tại các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hòa Bình, Hưng Yên, Hà Nam, Ninh Bình ngập chìm nhiều ngày trong nước, bởi phải hứng chịu một lượng mưa lớn, phổ biến từ 400 đến 600 mm, nhiều nơi hơn 600 mm, như Thanh Oai 988 mm, Hà Ðông 830 mm, Chương Mỹ 727 mm, Vân Ðình 721 mm, nội thành Hà Nội 545 mm. Ðây cũng là trận mưa lớn nhất sau 35 năm trên địa bàn Hà Nội (cũ) và sau 48 năm trên địa bàn tỉnh Hà Tây trước đây.[33]

Trước đó vào giữa tháng 8, miền Bắc cũng xảy ra một trận mưa lũ lớn do ảnh hưởng của bão số 4 (Kammuri) và áp thấp nhiệt đới đều đổ bộ vào Quảng Ninh chỉ trong 5 ngày (7-12 tháng 8). Mưa to, lũ lớn ở các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, làm 153 người chết, thiệt hại về vật chất lên tới 2.193 tỷ đồng.[33] Sông Chảy đoạn qua trạm Thủy văn Long Phúc (Bảo Yên, Lào Cai) có đỉnh lũ lên đến 76,47m vào ngày 9 tháng 8, được cho là ngang tòa nhà gần 30 tầng; lũ trên sông Hồng, sông Chảy được coi là đặc biệt lớn trong 40 năm qua. Mực nước trên sông Hồng tại Lào Cai chỉ kém 0,16 m là bằng lũ lịch sử năm 1968.[34]

Trận lụt năm 2017

Ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới vào Hà Tĩnh, Quảng Bình ngày 10 tháng 10 đã gây ra một đợt mưa lũ lịch sử tại khu vực Nam đồng bằng Bắc Bộ, buộc thủy điện Hòa Bình mở 8 cửa xả đáy. Lũ trên các sông 7 tỉnh miền Bắc, Bắc Trung Bộ (Yên Bái, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) lên nhanh; tại sông Hoàng Long ở Ninh Bình nước lũ dâng lên ở mức kỷ lục mới là 5,53m (năm 1985 là 5,24m).[35] Tổng cộng có 100 người thiệt mạng và thiệt hại hơn 13 nghìn tỷ ₫ (572 triệu USD).[36][37] Tuy nhiên đây cũng là lũ lụt ở diện hẹp khi lũ tại một số sông khác trên hệ thống sông Hồng và Thái Bình không quá cao.

Trận lụt năm 2024

Đầu tháng 9 năm 2024, miền Bắc Việt Nam đã xảy ra lũ lụt trên diện rộng do ảnh hưởng của bão số 3. Cơn bão này được đánh giá đây là "mạnh nhất trong 30 năm qua" trên Biển Đông và trong 70 năm qua trên đất liền, với nhiều đặc điểm "chưa từng có tiền lệ" gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Ngày 17 tháng 9, thống kê sơ bộ cho thấy đã có 329 người thiệt mạng và mất tích, khoảng 1.929 người bị thương; khoảng 234.700 căn nhà, 1.500 trường học và nhiều công trình hạ tầng bị sập đổ, hư hại cùng 726 sự cố đê điều đã xảy ra. Ngày 18 tháng 9 năm 2024, tổng thiệt hại về tài sản do bão số 3 gây ra được thống kê ước tính sơ bộ trên 50.000 tỉ đồng.[38]

Trận lụt năm 2025

Ảnh hưởng của các cơn bão Ragasa, Bualoi, Matmo đã gây ra đợt mưa lũ nhiều ngày tại khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ từ 25 tháng 9 đến 16 tháng 10, đặc biệt ngày 7 tháng 10 ghi nhận mưa kỷ lục tại một số trạm ở Thái Nguyên, Bắc Ninh. Đỉnh lũ trên thượng nguồn sông Thái Bình (sông Cầu, sông Thương) đã ghi nhận mức lịch sử mới. Vào ngày 8 tháng 10, lũ trên sông Cầu tại trạm Gia Bảy lên 29,9 m, trên mức lịch sử do bão Yagi năm 2024 là 1,09 m. Cùng ngày, lũ trên sông Thương tại Hữu Lũng (Lạng Sơn) đã đạt đỉnh là 24,31 m lúc 14 giờ, vượt 1,77 m so với lũ lịch sử năm 1986 (22,54 m). Ngày 9 tháng 10, lũ sông Thương tại Phủ Lạng Thương và Phúc Lộc Phương cũng thiết lập kỷ lục lịch sử. Đỉnh lũ ghi nhận trên sông Thương tại Phủ Lạng Thương là 7,6 m, vượt lũ lịch sử năm 1986; trên sông Cầu tại Chã lên đến 12,02 m, vượt lũ lịch sử năm 1971 1 m và tại Phúc Lộc Phương là 9,98 m, vượt lũ lịch sử năm 2024. Đỉnh lũ trên sông Thương tại Cầu Sơn đạt 18,37 m, trên lũ lịch sử năm 2008 là 0,95 m. Thiệt hại nghiêm trọng tại các tỉnh Bắc Bộ, riêng tỉnh Thái Nguyên thiệt hại 12.600 tỷ đồng.[28][39]

Remove ads

Một số trận mưa, lụt diện hẹp khác

Trận lụt năm 1959 (Bắc Thái)

Vào đầu tháng 7 năm 1959, một trận lũ lịch sử xảy ra trên thượng nguồn sông Cầu, đỉnh lũ đạt được ngày 2 tháng 7 năm 1959 tại Gia Bảy (Thái Nguyên) là 28,14m (bị phá vỡ năm 2024 rồi 2025).[40][41] Lũ lụt gây ngập tỉnh Bắc Thái cũ, nay là Thái Nguyên, đỉnh lũ tại Bắc Kạn lên đến 137,93m (ngập toàn bộ thị xã Bắc Kạn).[42]

Trận lụt năm 2015 (ở Quảng Ninh)

Đợt mưa lũ xảy ra với diện hẹp, tâm điểm tại tỉnh Quảng Ninh. Tổng lượng mưa đo được tại một số điểm ở Quảng Ninh từ ngày 23 đến 29 tháng 7 đã vượt quá 1.500 mm. Theo đánh giá, đây là trận mưa lớn nhất trong vòng 55 năm qua, phá vỡ hàng loạt kỷ lục.[43]

Remove ads

Xem thêm

Tham khảo

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads