Quan sát viên Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
bài viết danh sách Wikimedia From Wikipedia, the free encyclopedia
Remove ads
Ngoài 193 quốc gia thành viên, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc có thể cấp quy chế quan sát viên cho tổ chức quốc tế, thực thể hoặc nhà nước phi thành viên, thực thể được tham gia các công việc của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc, nhưng rất hạn chế. Đại Hội đồng có thể quyết định giới hạn đặc quyền cho các thực thể quan sát viên, chẳng hạn như quyền được phát biểu tại các cuộc họp Đại Hội đồng, bỏ phiếu về các vấn đề theo thủ tục, đóng vai trò như ký vào giấy tờ chấp thuận, và ký các nghị quyết, nhưng không được đưa ra nghị quyết quyết định và biểu quyết các nghị quyết các vấn đề quan trọng của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc.
Tình trạng Quan sát viên được Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc công nhận theo nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc. Tình trạng thường trực sẽ do Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc quyết định theo thực tế, không có điều khoản quy định trong Hiến chương Liên Hợp Quốc. Tình trạng được công nhận quan sát viên phi thành viên. Quốc gia phi thành viên được tham gia các tổ chức của Liên Hợp Quốc, có thể đăng ký trạng thái thường trực.
Remove ads
Quy định thành viên chính thức
Điều 4 Chương II Hiến chương Liên Hợp Quốc quy định tiêu chuẩn là thành viên Liên Hợp Quốc:[1]
Tất cả các quốc gia yêu chuộng hoà bình khác thừa nhận những nghĩa vụ quy định trong Hiến chương này và được Liên Hợp Quốc xét có đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những nghĩa vụ ấy, đều có thể trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc;
Việc kết nạp bất cứ một quốc gia nào nói trên vào Liên Hợp Quốc sẽ được tiến hành bằng nghị quyết của Đại hội đồng, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an[2]
Remove ads
Thực thể quan sát viên phi thành viên
Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc có thể mời các thực thể không phải thành viên tham gia vào hoạt động của Liên Hợp Quốc mà không có tư cách thành viên chính thức, và đã làm như vậy trong nhiều dịp. Những thực thể tham gia như vậy được mô tả là quan sát viên, một số trong số đó có thể được phân loại là các nhà nước quan sát viên. Hầu hết các quốc gia không phải là thành viên của nhà quan sát đều chấp nhận tình trạng quan sát viên tại thời điểm họ nộp đơn xin gia nhập nhưng không thể đạt được điều này, do (hoặc thực tế) sự phủ quyết của một hoặc nhiều thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Việc cấp tư cách quan sát viên thực hiện bởi Đại Hội đồng và không thuộc diện phủ quyết của Hội đồng Bảo an.
Trong một số trường hợp 1 quốc gia có thể chọn trở thành 1 quan sát viên chứ không phải là thành viên chính thức. Ví dụ, để duy trì tính trung lập của mình trong khi tham gia vào công việc, Thụy Sĩ đã chọn để duy trì quan sát viên không phải là thành viên thường trực từ năm 1948 cho đến khi trở thành thành viên vào năm 2002 mặc dù là nơi đặt trụ sở châu Âu và của một số cơ quan Liên Hợp Quốc.[3] Tòa Thánh đã không muốn gia nhập Liên Hợp Quốc như 1 thành viên vì "Việc tham gia vào tổ chức dường như không phù hợp với các điều khoản của Điều 24 của Hiệp ước Laterano, đặc biệt những vấn đề chính trị, quân sự và kinh tế".[4] Từ ngày 6/4/1964, Tòa Thánh đã chấp nhận tư cách quan sát viên thường trực tại Liên Hợp Quốc, được xem như là 1 giải pháp ngoại giao, cho phép Vatican tham gia vào các hoạt động nhân đạo và duy trì hòa bình của Liên Hợp Quốc.
Quan sát viên thường trực
Hiện nay có 2 quốc gia quan sát viên thường trực phi thành viên ở Liên Hợp Quốc là Tòa Thánh và Palestine. Tòa Thánh đã trở thành quan sát viên không phải thành viên vào năm 1964 và Palestine đã được chỉ định vào năm 2012, sau khi nộp đơn xin gia nhập thành viên vào năm 2011 [5] mà không được sự chấp thuận của Hội đồng Bảo an. Cả hai đều được mô tả là "Các quốc gia phi thành viên đã nhận được lời mời thường trực tham gia với tư cách là quan sát viên trong các phiên họp và công việc của Đại Hội đồng và duy trì các quan sát viên thường trực tại trụ sở chính".[6]
Sự thay đổi tình trạng quan sát viên Palestine năm 2012 từ "thực thể quan sát phi thành viên" thành "nhà nước quan sát viên phi thành viên" được coi là "nâng cấp" vị thế của họ. Nhiều người gọi đây là sự thay đổi "tượng trưng"[7], nhưng nó được coi là đòn bẩy mới cho người Palestine khi họ làm việc với Israel.[8] Kết quả là, trong sự thay đổi tình trạng, Ban Thư ký Liên Hợp Quốc thừa nhận quyền Palestine trở thành một bên của các hiệp ước mà Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc là người lưu chiểu.[9]
Các ghế ngồi tại Đại Hội đồng được sắp xếp với các quốc gia quan sát viên phi thành viên ngồi ngay sau các quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc và trước các quan sát viên khác. Vào ngày 10/9/2015, Đại Hội đồng đã quyết định phê chuẩn việc nâng cao cờ của các quốc gia quan sát viên phi thành viên của Liên Hợp Quốc cùng với 193 nước thành viên của Liên Hợp Quốc.[10]
- Ghi chú
- Quần đảo Cook và Niue, cả 2 có liên kết tự do với New Zealand, là thành viên của nhiều cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc, và đã có "năng lực hiệp ước đầy đủ" được công nhận bởi Ban Thư ký Liên Hợp Quốc vào năm 1992 và 1994 tương ứng. Quần đảo Cook đã bày tỏ mong muốn trở thành 1 quốc gia thành viên của Liên Hợp Quốc, nhưng New Zealand tuyên bố rằng họ sẽ không ủng hộ bất cứ hành động đơn phương thay đổi hiến pháp, đặc biệt là quyền của Quần đảo Cook thuộc quốc tịch New Zealand.
- Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc) là nhà nước sáng lập Liên Hợp Quốc đại diện cho Trung Quốc trong giai đoạn nội chiến. Tuy nhiên từ 1971, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là nhà nước quản lý vị trí này. Từ đó Đài Loan đã tìm cách tiếp tục tham gia vào các hoạt động của Liên Hợp Quốc như tham gia các cơ quan chuyên môn của Liên Hợp Quốc nhưng đều bị ngăn chặn bởi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Danh sách các quốc gia quan sát viên trước đây
- Chú thích
- Đến 30/4/1975 Việt Nam Cộng hòa thất bại và sụp đổ trong Chiến tranh Việt Nam và Chính phủ lâm thời Miền Nam Việt Nam thống nhất với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập nước Việt Nam, được cấp quy chế quan sát năm 1976. Nghị quyết Đại hội đồng quyết định cho phiên họp thứ 30 và 31 không ghi lại quyết định cho phép quan sát viên, nhưng Nghị quyết 31/21 ngày 26 tháng 11 năm 1976 đề cập đến "Nhà nước quan sát viên thường trực nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tại Liên Hợp Quốc". Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc vào ngày 20 tháng 9 năm 1977.[26]
Remove ads
Các thực thể và tổ chức Quốc tế
Nhiều tổ chức liên chính phủ và một số đơn vị khác (các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức khác có mức độ quốc gia hoặc chủ quyền khác nhau) được chấp thuận trở thành các quan sát viên tại Đại Hội đồng. Một số trong số đó duy trì văn phòng thường trực tại trụ sở chính của Liên Hợp Quốc tại New York, trong khi một số khác thì không; Tuy nhiên, đây là sự lựa chọn của tổ chức và không ngụ ý sự khác biệt về tình trạng đó.
Các tổ chức khu vực được các quốc gia thành viên cho phép thay mặt
Trong nghị quyết được thông qua vào tháng 5/2011, cho phép Đại Hội đồng thêm các quyền đối với Liên minh châu Âu, các thoả thuận tương tự có thể được thông qua cho bất kỳ tổ chức khu vực nào khác được phép thay mặt cho các quốc gia thành viên của mình.
Các tổ chức liên chính phủ
Các thực thể khác
Các thực thể quan sát trước đây
- Tổ chức Nhân dân Tây Nam Phi (SWAPO), 1 phong trào giải phóng Namibia, tổ chức được cấp quyền quan sát viên truyền thông thông tin năm 1976. Trạng thái kết thúc năm 1990 khi Cộng hòa Namibia được thành lập trở thành thành viên Liên Hợp Quốc. SWAPO trở thành đảng chính trị tại Namibia.
Remove ads
Xem thêm
Chú thích
- Originally under the designation of European Community. The EC formally became EU on ngày 1 tháng 12 năm 2009 and was acknowledged by 2011.
- Agence de Coopération Culturelle et Technique became observer in 1978 and its observer status was transferred to its successor, the International Organization of la Francophonie in 1998.
Tham khảo
Wikiwand - on
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Remove ads