Việt Nam tại Olympic Toán học Quốc tế

From Wikipedia, the free encyclopedia

Việt Nam tại Olympic Toán học Quốc tế
Remove ads

Do quy định của kì thi chọn học sinh giỏi quốc gia Việt Nam, thí sinh Việt Nam chỉ có thể tham gia nhiều nhất là ba kì Olympic Toán học Quốc tế (IMO) (năm lớp 10, 11 và 12). Việt Nam bắt đầu tham gia IMO từ năm 1974 và là nước châu Á đầu tiên tham dự kì thi này[1]. Việt Nam không tham gia các kì IMO 1977 và IMO 1981[2].

Thông tin Nhanh Việt Nam tại Olympic Toán học Quốc tế, Mã IMO ...

Cho đến nay (2023) đã có 9 thí sinh Việt Nam từng 2 lần giành huy chương vàng liên tiếp, đó là

  • Ngô Bảo Châu tại IMO 1988 (42 điểm) và 1989 (40 điểm)
  • Đào Hải Long tại IMO 1994 (41 điểm) và 1995 (40 điểm)
  • Ngô Đắc Tuấn tại IMO 1995 (42 điểm) và 1996 (37 điểm) (Bắc Ninh)
  • Vũ Ngọc Minh tại IMO 2001 (33 điểm) và 2002 (35 điểm)
  • Lê Hùng Việt Bảo tại IMO 2003 (42 điểm) và 2004 (36 điểm)
  • Phạm Tuấn Huy tại IMO 2013 (33 điểm) và 2014 (32 điểm)
  • Nguyễn Thế Hoàn tại IMO 2014 (29 điểm) và 2015 (31 điểm)
  • Vũ Xuân Trung tại IMO 2015 (34 điểm) và 2016 (31 điểm)
  • Phạm Việt Hưng tại IMO 2022 (39 điểm) và 2023 (37 điểm)

Có 1 thí sinh Việt Nam giành được 2 huy chương vàng, nhưng không phải 2 lần liên tiếp, đó là Ngô Quý Đăng tại IMO 2020 (36 điểm) và 2022 (42 điểm). Ngô Quý Đăng cũng là thí sinh Việt Nam lớp 10 đầu tiên dự thi IMO (năm 2020).

Trong số 9 thí sinh này thì trừ Vũ Ngọc Minh, Phạm Tuấn Huy và Vũ Xuân Trung là học sinh của Trường Trung học phổ thông Chuyên, Đại học Sư phạm Hà Nội, Trường Phổ thông Năng khiếu, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí MinhTrường Trung học phổ thông chuyên Thái Bình, 6 người còn lại đều là học sinh của Trường Trung học phổ thông chuyên Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội.[3]

Ngoài 9 thí sinh này, có 6 thí sinh Việt Nam khác cũng từng 2 lần tham dự đội tuyển IMO (trong đó có 1 lần giành huy chương vàng), đó là:

  • Nguyễn Chu Gia Vượng tại IMO 1993 (HCV) và 1994 (HCB)
  • Đỗ Quốc Anh tại IMO 1997 (HCV) và 1996 (HCĐ)
  • Đỗ Quang Yên tại IMO 1999 (HCV) và 1998 (HCB)
  • Lê Thái Hoàng tại IMO 1999 (HCV) và 1998 (HCĐ)
  • Phạm Kim Hùng tại IMO 2004 (HCV) và 2005 (HCB)
  • Trương Tuấn Nghĩa tại IMO 2020 (HCV) và 2021 (HCB).

Có 10 thí sinh Việt Nam từng giành điểm tuyệt đối:[3]

Trong đó, trừ trường hợp của Lê Bá Khánh Trình đạt điểm tuyệt đối là 40 do cách tính điểm đặc biệt năm ông tham dự,[4] các thí sinh còn lại đều đạt điểm 42.

Có 1 thí sinh Việt Nam từng giành giải thưởng đặc biệt là Lê Bá Khánh Trình của Quốc học Huế.

Tính đến năm 2017, sau 41 lần tham dự IMO, nếu tính về thứ hạng, đoàn Việt Nam đạt thành tích tốt nhất tại IMO 1999, 20072017 (đều đứng thứ 3 toàn đoàn với 3 huy chương vàng, 3 huy chương bạc). Thành tích cao nhất xét trên số huy chương là IMO 2004 với 4 huy chương vàng và 2 huy chương bạc.[5] Năm 2011, đoàn Việt Nam chỉ giành được 6 huy chương đồng, xếp thứ 31 toàn đoàn, là thành tích thấp nhất trong lịch sử 35 lần tham dự IMO của Việt Nam.[6]

Remove ads

Thành tích các đoàn Việt Nam tham dự IMO

Chú thích: = Huy chương Vàng; = Huy chương Bạc; = Huy chương Đồng; KK = Khuyến khích (Bằng khen)

Ghi chú: có thể sắp xếp nội dung theo các nhóm khi bấm vào ký hiệu ô vuông nhỏ ở tiêu đề các cột ở bảng dưới đây.

Thêm thông tin IMO lần thứ, Địa điểm tổ chức (quốc gia, thành phố) ...
Remove ads

Xem thêm

Chú thích

Liên kết ngoài

Loading related searches...

Wikiwand - on

Seamless Wikipedia browsing. On steroids.

Remove ads