Chiến dịch Hồ Chí Minh
chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Hồ Chí Minh, tên ban đầu là Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 và Chiến tranh Việt Nam. Đây cũng là chiến dịch quân sự diễn ra trong thời gian ngắn nhất trong Chiến tranh Việt Nam, diễn ra từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại Sài Gòn và kéo theo là sự tiếp quản của chính phủ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tại Đồng bằng sông Cửu Long trong hai ngày 1 và 2 tháng 5. Chiến dịch này dẫn đến việc chấm dứt hoàn toàn sự chia cắt thành hai vùng tập kết quân sự về mặt lãnh thổ giữa hai miền Nam – Bắc của Việt Nam vào năm 1975, đưa đến việc thống nhất xã hội, chế độ chính trị, dân cư và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam trên đất liền, vùng lãnh hải, vùng trời và một số hải đảo [10] khác của Việt Nam vào năm 1976.
Chiến dịch Hồ Chí Minh | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến dịch mùa Xuân năm 1975 trong Chiến tranh Việt Nam | |||||||
Bức ảnh chụp chiếc xe tăng 390 (ở giữa) của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - chiếc xe tăng đầu tiên húc đổ cổng dinh Độc Lập vào trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 của nữ nhà báo Pháp Françoise Demulder. Hình mũi tên chỉ vào Đại đội trưởng Bùi Quang Thận, người đã cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập [1] | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Hoa Kỳ Việt Nam Cộng hòa | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Võ Nguyên Giáp Văn Tiến Dũng Hoàng Văn Thái Lê Trọng Tấn Trần Văn Trà Lê Đức Anh Đinh Đức Thiện Bùi Phùng Lê Ngọc Hiền Hoàng Cầm Vũ Lăng Nguyễn Hữu An Nguyễn Hòa |
Dương Văn Minh (POW) Cao Văn Viên Trần Văn Đôn Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc Chung Tấn Cang Nguyễn Hữu Hạnh (POW) Nguyễn Văn Toàn Nguyễn Khoa Nam † Graham Martin (tổ chức di tản) | ||||||
Lực lượng | |||||||
250.000 quân chủ lực, 20.000 quân địa phương và du kích, 15 bệnh viện, 17 đội Quân y. 8 đoàn Hậu cần khu vực với 32.500 bộ đội. 180.000 dân công phục vụ hậu cần chiến dịch.[4] Trang bị: 265 xe tăng và 127 xe thiết giáp, 241 pháo xe kéo, 88 pháo mang vác, hơn 400 pháo cao xạ |
Quân đoàn III: 245.000 quân chính quy. Quân đoàn IV: 175.000 quân chính quy[5] Trang bị: 1.117 xe tăng và xe thiết giáp, 772 pháo cỡ lớn, hơn 1.200 máy bay, 1.431 tàu và xuồng chiến đấu | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
~6.000 chết và bị thương.[6] 29 xe tăng, 7 xe thiết giáp bị phá huỷ |
~15.700 chết và bị thương |