Bayinnaung
From Wikipedia, the free encyclopedia
Bayinnaung (tiếng Miến Điện: ဘုရင့်နောင်, phát âm [bəjɪ̰ɴ nàuɴ]; phát âm tiếng Việt: Bu-reng-noọng, sinh: 13/11/1516 – mất 10/10/1581,Tiếng Trung:Mảng Ưng Long) là vị vua đời thứ ba của nhà Taungoo ở Myanmar. Suốt 30 năm trị vì, mà một sử gia từng đánh giá là "sự bùng nổ nhiệt huyết lớn nhất từng thấy ở Myanmar", Bayinnaung đã thành lập nên đế quốc lớn nhất Đông Nam Á, bao gồm Myanmar ngày nay, Manipur nay thuộc Ấn Độ, Mong Mao (những nhà nước cổ của người Shan ở Vân Nam), Lan Na (bắc Thái Lan ngày nay), Ayutthaya (miền trung và nam Thái Lan ngày nay) và Lan Xang (đông bắc Thái Lan và Lào ngày nay).[3]
Bayinnaung ဘုရင့်နောင် | |||||
---|---|---|---|---|---|
Tượng Bayinnaung ở phía trước của Bảo tàng Quốc gia Myanmar | |||||
Hạ Miến (1551–1581)
Thượng Miến (1555–1581) Các nhà nước của người Shan (1557-1581) Lan Na (1558-1581) Manipur (1559–1581) Các nhà nước của người Shan ở Trung Quốc (1562-1581) Ayutthaya (1564-1581) Lan Xang (1574-1581) | |||||
Tại vị | 11 tháng 1 năm 1551 – tháng 11 năm 1581 (30 năm 10 tháng) | ||||
Đăng quang | 12 tháng 1 năm 1554 | ||||
Tiền nhiệm | Tabinshwehti | ||||
Kế vị | Nanda | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 13 tháng 2 năm 1516[1] | ||||
Mất | Tháng 11 năm 1581 (hưởng dương 65 tuổi) Pegu | ||||
An táng | Pegu | ||||
Phối ngẫu | Atulathiri Sandadewi Yazadewi Suphankanlaya[2] | ||||
Hậu duệ | Nanda Nyaungyan Minye Thihathu Nawrahta Minsaw[2] | ||||
| |||||
Hoàng tộc | Taungoo | ||||
Thân phụ | Mingyiswe | ||||
Thân mẫu | Shin Myo Myat | ||||
Tôn giáo | Phật giáo Thượng tọa bộ |
Bài viết này có chứa ký tự Myanmar. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì các chữ Myanmar. |
Dù người ta thường hay nhớ đến ông vì có công vĩ đại xây dựng đế quốc, song di sản lớn nhất của Bayinnaung là đã thu phục được các nhà nước Shan vào vương quốc do người Miến lãnh đạo, nhờ đó loại bỏ nguy cơ người Shan xâm phạm Thượng Miến, một nguy cơ xuất hiện và thường trực từ cuối thế kỷ 13. Sau khi chinh phạt các nhà nước Shan vào năm 1557, vị vua này đã thiết kế một hệ thống hành chính làm suy yếu sức mạnh thế tập của các saopha (tù trưởng) người Shan, và điều chỉnh các tập quán của người Shan phù hợp với những chuẩn mực của người Miến. Chính sách đối với người Shan của ông được các vị vua người Miến sau này tiếp tục cho đến tận khi vương quốc này bị thực dân Anh thôn tính vào năm 1885.[4]
Tuy nhiên, ông đã không thể áp dụng chính sách hành chính nói trên vào bất kỳ đâu khác trong đế quốc của mình. Đế quốc của ông là một tập hợp lỏng lẻo các vương quốc có chủ quyền mà vua của những xứ đó thần phục chính bản thân ông như một vị vua của các vị vua, chứ không thần phục vương quốc Taungoo. Chỉ sau khi ông qua đời chỉ 3 năm, người Ayutthaya đã vùng dậy. Đến năm 1599, tất cả các vị vua mà ông đã khuất phục đều đã phản lại, và đế quốc của Bayinnaung đã sụp đổ hoàn toàn.
Ở Thái Lan, ông nổi tiếng nhờ một bài hát và một cuốn sách thu hút rộng rãi độc giả có tên "Phu Chana Sip Thit" nghĩa là "Người chinh phạt thập phương".