Đế quốc Đông La Mã
đế quốc tồn tại trong thời kỳ 330 - 1453 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đế quốc Byzantine, còn được gọi là Đế quốc Đông La Mã, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ với thủ đô là Constantinople. Nó tồn tại sau sự chia cắt và sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã vào thế kỷ 5 và tiếp tục tồn tại thêm một nghìn năm nữa cho đến khi Constantinople sụp đổ trước Đế quốc Ottoman vào năm 1453. Trong phần lớn thời gian tồn tại, đế chế này vẫn là cường quốc kinh tế mạnh nhất, một thế lực văn hóa, quân sự ở châu Âu. Các thuật ngữ "Đế quốc Byzantine" và "Đế quốc Đông La Mã" được đặt ra sau khi vương quốc này kết thúc, còn bản thân các công dân của nó vẫn gọi đế chế của mình là Đế quốc La Mã.
Đế quốc Byzantine
|
|||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||||
295/395 – 1453/1461 | |||||||||||||||
Đế kỳ của Đế quốc Đông La Mã thời hậu kỳ dưới triều đại Palaiologos Thế kỉ 14
| |||||||||||||||
Lãnh thổ cực thịnh của Đông La Mã dưới sự trị vì Justinianus Đại đế | |||||||||||||||
Lãnh thổ Đế chế Đông La Mã từ sự phân chia của Đế chế La Mã đến Sự thất thủ của Constantinopolis | |||||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||||
Vị thế | Đế quốc | ||||||||||||||
Thủ đô | Constantinopolis1 | ||||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | La-tinh (tới năm 620) Hy Lạp (sau năm 620) | ||||||||||||||
Tôn giáo chính | Chính thống giáo Đông phương | ||||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||||
Hoàng đế | |||||||||||||||
• 330–337 | Constantinus I | ||||||||||||||
• 1449–1453 | Konstantinos XI | ||||||||||||||
Lập pháp | Viện Nguyên lão Đông La Mã | ||||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||||
Thời kỳ | Trung đại | ||||||||||||||
• Diocletianus phân chia hành chính giữa Đông và Tây | 295 | ||||||||||||||
• Theodosius I băng hà | 395 | ||||||||||||||
• Sự phế truất Romulus Augustulus, hoàng đế trên danh nghĩa cuối cùng của phương Tây, kết thúc sự phân chia ranh giới cũ của Đế chế La Mã | 476 | ||||||||||||||
• Giáo hoàng Lêô III, bất bình với chế độ cai trị của Nữ hoàng Irene, cố gắng đưa Vua Charlemagne của Francia lên ngôi | 800 | ||||||||||||||
1054 | |||||||||||||||
• Sự thất thủ của Constantinopolis thời Thập tự chinh thứ tư | 1204 | ||||||||||||||
1261 | |||||||||||||||
29 tháng 5 1453 | |||||||||||||||
• Sự thất thủ của Trebizond | 1461 | ||||||||||||||
Địa lý | |||||||||||||||
Diện tích | |||||||||||||||
• 555 | 2.800.000 km2 (1.081.086 mi2) | ||||||||||||||
• 780 | 640.000 km2 (247.105 mi2) | ||||||||||||||
• 1025 | 1.400.000 km2 (540.543 mi2) | ||||||||||||||
• 1143 | 800.000 km2 (308.882 mi2) | ||||||||||||||
• 1204 | 100.000 km2 (38.610 mi2) | ||||||||||||||
Dân số | |||||||||||||||
• 555 | 26.000.000 | ||||||||||||||
• 780 | 7.000.000 | ||||||||||||||
• 1025 | 12.000.000 | ||||||||||||||
• 1143 | 10.000.000 | ||||||||||||||
• 1204 | 9.000.000 | ||||||||||||||
Kinh tế | |||||||||||||||
Đơn vị tiền tệ | Solidus, Hyperpyron | ||||||||||||||
| |||||||||||||||
Hiện nay là một phần của | Các quốc gia hiện tại
| ||||||||||||||
1 Constantinopolis (330–1204 và 1261–1453). Từ năm 1204 tới 1261, thủ đô của Đế quốc Nicaea, đế quốc thành lập sau cuộc Thập tự chinh thứ tư, là Nicaea, ngày nay là Iznik, Thổ Nhĩ Kỳ. 2 Ngày thành lập truyền thống được coi lại sáng lập của Constantinopolis là thủ đô của đế chế La Mã (324/330) mặc dù ngày khác thường được sử dụng.[1] 3 Ngày cuối phổ coi là 1453, bất chấp sự tồn tại của các lãnh thổ còn sót lại tại Morea và Trebizond.[1] 4 Xem Dân số Đế quốc Byzantine để biết các số liệu chi tiết hơn được cung cấp bởi McEvedy and Jones, "Atlas of World Population History", 1978, và Angeliki E. Laiou, "The Economic History of Byzantium", 2002. 5Vị thế chính trị của Kosovo đang trong tình trạng tranh chấp. Sau khi đơn phương tuyên bố độc lập khỏi Serbia vào năm 2008, Kosovo được chính thức công nhận là một nhà nước độc lập bởi 97 trong tổng số 193 (50.3%) nước thành viên LHQ (chưa kể 15 nước khác từng công nhận nhưng sau đó đã rút lại tuyên bố đó), trong khi Serbia tiếp tục tuyên bố đây là một phần lãnh thổ của mình. |
Không thấy một tư liệu chính xác nào về sự khởi đầu của Đế quốc Đông La Mã. Một vài ý kiến cho rằng đế quốc này được thành lập dưới thời cai trị của Hoàng đế Diocletianus (284–305), người đã chia Đế quốc La Mã thành hai nửa đông và tây.[2] Một vài người lại nói rằng đế quốc bắt đầu vào thời của Constantinus I, vị hoàng đế đầu tiên đóng đô tại Constantinopolis.[lower-alpha 1] Những ý kiến khẳng định vào thời trị vì của Hoàng đế Theodosius I (379–395) hoặc theo sau cái chết của ông vào năm 395. Một vài người cho vào thời điểm xa hơn vào năm 476 khi đế quốc phía tây sụp đổ. Nhưng hiện nay tư liệu khá chính xác là vào năm 330, khi Constantinus I thành lập tân đô Constantinopolis dưới sự phát triển vượt bậc của văn hóa Ki-tô giáo và thời kỳ văn hóa chịu ảnh hưởng Hy Lạp (quá trình Hy Lạp hóa văn hóa).[4] Đế quốc Đông La Mã đã tồn tại hơn một ngàn năm, từ thế kỷ thứ IV cho đến năm 1453. Trong thời gian tồn tại của nó, từ năm 600,Đông La Mã vẫn là một trong những cường quốc kinh tế, văn hóa, và quân sự lớn mạnh nhất ở châu Âu, bất chấp những thất bại và mất mát lãnh thổ lớn ở Bắc Phi, đặc biệt là trong cuộc Chiến tranh La Mã-Ba Tư, Chiến tranh Ả Rập-Đông La Mã và Chiến tranh Đông La Mã-Bulgaria khiến cho Đế quốc bị suy kiệt về kinh tế lớn. Đế quốc sau đó đã phục hưng dưới triều đại Macedonia, một lần nữa Đông La Mã vươn lên thành liệt cường hàng đầu của vùng Đông Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ thứ X, đối địch với Nhà Fatima của người Hồi giáo.[5]
Tuy nhiên, sau năm 1071, nhiều lãnh đổ ở Tiểu Á - trung tâm của đế quốc, bị người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk chiếm đoạt. Mặc dù Vương triều nhà Komnenos đã giành lại một số đất đai và hưng thịnh lại Đế quốc trong một thời gian ngắn trong thế kỷ thứ XII, sau khi Hoàng đế Andronikos I Komnenos qua đời và Vương triều Komnennos cáo chung ở cuối thế kỷ thứ XII, một lần nữa Đế quốc lâm vào suy vong. Đế quốc Đông La Mã bị cuộc Thập tự chinh lần thứ tư giáng một đòn chí mạng vào năm 1204, khiến Đế quốc bị giải thể và các lãnh thổ La Tinh và Hy Lạp thuộc Đông La Mã bị chia cắt.
Vào năm 1261, kinh đô Constantinopolis được giải phóng và Đế quốc Đông La Mã trung hưng, thế nhưng dưới triều các hoàng đế nhà Palaiologos, Đông La Mã chỉ còn là một trong nhiều quốc gia nhỏ đối địch nhau ở khu vực, trong suốt 200 năm tồn tại cuối cùng của nó. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nền văn hóa của Đế quốc sinh sôi nảy nở.[6] Các cuộc biến loạn cung đình xảy ra liên tiếp trong thế kỷ XIV tiếp tục hủy hoại sự thịnh vượng của Đế quốc Đông La Mã, trong khi các lãnh thổ còn lại của Đông La Mã lần lượt bị lấy mất trong cuộc Chiến tranh Đông La Mã-Ottoman, mà đỉnh điểm là sự thất thủ của Constantinopolis và các vùng lãnh thổ còn lại bị Đế quốc Ottoman chinh phục vào thế kỷ thứ XV,[7] đã chấm dứt sự tồn tại của Đế quốc Đông La Mã trong 1000 lịch sử trên lãnh thổ Đông, Nam Âu và Trung Đông.
Sự kiện Constantinopolis thất thủ đã khiến Con đường tơ lụa hoàn toàn sụp đổ, ngăn cản người châu Âu sử dụng các tuyến đường bộ và trên biển vốn trước đây đi qua lãnh thổ Đông La Mã. Đây là một đòn giáng mạnh vào các Thiên chúa quốc và mối quan hệ kinh doanh được thiết lập liên kết với phương đông và một thời đại mới được mở ra cho nhân loại sau khi Đông La Mã sụp đổ đó chính là thời đại khám phá và châm ngòi cho thời kỳ phục hưng diễn ra mạnh mẽ ở toàn bộ châu âu