Chiến dịch Điện Biên Phủ
chiến thắng của Việt Minh trước quân Pháp cuối Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất / From Wikipedia, the free encyclopedia
Trận Điện Biên Phủ (tiếng Pháp: Bataille de Diên Biên Phu; phát âm: [bataj də djɛ̃ bjɛ̃ fy]), còn gọi là Chiến dịch Trần Đình là trận đánh lớn nhất[8] trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên) giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Liên hiệp Pháp (gồm Lực lượng Viễn chinh Pháp, Binh đoàn Lê dương Pháp, quân phụ lực bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam).
Chiến dịch Điện Biên Phủ | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến tranh Đông Dương | |||||||
Quân đội Nhân dân Việt Nam phất cờ chiến thắng trên nóc trung tâm phòng ngự của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (Ảnh trích từ tác phẩm của đạo diễn Roman Karmen)[1][2] | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Không chính thức: |
Cố vấn quân sự: | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Christian de Castries André Trancart Jules Gaucher † Pierre Langlais André Lalande Charles Piroth † |
Hồ Chí Minh Võ Nguyên Giáp Chu Văn Tấn Hoàng Văn Thái Lê Liêm Trần Đăng Ninh Lê Trọng Tấn Chu Huy Mân Vương Thừa Vũ Hoàng Minh Thảo Lê Quảng Ba Song Hào | ||||||
Lực lượng | |||||||
16 tiểu đoàn bộ binh, 7 đại đội bộ binh, pháo binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay. Quân số 10.814 người, sau tăng viện 4.291 người. Cao điểm lên tới khoảng 16.200 người. 3.000 PIM (culi) vận tải hậu cần 30.000 quân nhân kỹ thuật chuyên vận hành lực lượng không quân Pháp đóng ở các sân bay quân sự tại vùng đồng bằng Bắc Bộ (như sân bay Gia Lâm, sân bay Cát Bi, sân bay Đồ Sơn,...) Khoảng 420 máy bay các loại yểm trợ, thả tổng cộng 7.000 tấn hàng và 5.000 tấn bom. Pháo binh bắn yểm trợ hơn 110.000 viên đạn pháo cỡ 105mm trở lên. 10 xe tăng. 37 phi công Mỹ. |
10 trung đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công binh và pháo binh. Quân số 53.800, sau tăng viện thêm khoảng 8.000 người. 261.451 dân công vận tải hậu cần. Pháo binh bắn yểm trợ tổng cộng khoảng 17.500 viên đạn pháo cỡ 105mm. | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
1.747 - 2.293 tử trận, 1.729 mất tích, 5.240 - 6.650 bị thương, 11.721 bị bắt.[4] Hoa Kỳ: 2 phi công thiệt mạng. Tổng cộng: ~18.000 thương vong 10 xe tăng, hàng trăm xe vận tải bị phá hủy hoặc bị thu giữ. 62 máy bay bị bắn rơi, 186 máy bay bị hư hại. |
4.020 tử trận, 792 mất tích, 9.118 bị thương.[5] Tổng cộng: ~14.000 thương vong[6][7] | ||||||
Đây là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945 – 1954) của Việt Nam. Với thắng lợi quyết định này, lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, sau suốt 2 tháng cầm cự.[9] Giữa trận này, quân Pháp đã gia tăng lên đến 16.200 người nhưng vẫn không thể cầm cự được trước các đợt tấn công như vũ bão của Quân đội Nhân dân Việt Nam.[10] Thực dân Pháp đã không thể bình định Việt Nam bất chấp nhiều năm chiến đấu và với sự hỗ trợ và can dự ngày càng sâu của Hoa Kỳ.[10] Pháp đã không còn bất kì khả năng nào để tiếp tục chiến đấu tại Việt Nam sau thảm bại này.[11]
Trên phương diện quốc tế, chiến dịch này có một ý nghĩa rất lớn và đã đi vào lịch sử nhân loại, bởi đây là lần đầu tiên quân đội của một nước từng là thuộc địa ở châu Á đánh bại đội quân hiện đại và tối tân của một cường quốc châu Âu, được hỗ trợ bởi đồng minh là Hoa Kỳ trong một chiến dịch quân sự lớn. Được xem là một thảm họa bất ngờ đối với thực dân Pháp và cũng là một đòn giáng mạnh với thế giới phương Tây,[9] đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này phải hòa đàm[9] và rút quân ra khỏi Đông Dương. Với niềm tin được cổ vũ mạnh mẽ bởi chiến thắng này, các thuộc địa của Pháp ở châu Phi cũng đồng loạt nổi dậy đòi độc lập. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho hầu hết các nước từng là thuộc địa của họ.
Qua đó, thắng lợi của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong Chiến dịch Điện Biên Phủ còn được xem là một cột mốc đánh dấu thất bại hoàn toàn của Pháp trong nỗ lực tái gây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của họ nói chung sau Chiến tranh thế giới thứ hai,[10][12] qua đó chấm dứt hơn 400 năm tồn tại của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới này.