T-26
From Wikipedia, the free encyclopedia
T-26 là một xe tăng bộ binh hạng nhẹ của Liên Xô, được sử dụng trong nhiều cuộc chiến hồi những năm 1930 cũng như trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Nguyên mẫu của nó là xe tăng Vickers 6 tấn của Anh và được công nhận rộng rãi là một trong những mẫu thiết kế xe tăng thành công nhất của năm 1930.[3]
Xe tăng bộ binh hạng nhẹ T-26 | |
---|---|
T-26 mod.1933 được trưng bày tại bảo tàng "Sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Leningrad" gần Kirovsk, Leningrad Oblast. Chiếc xe tăng này đã được trục vớt từ dưới sông Nevsky Pyatachok lên vào tháng 5 năm 2003. | |
Loại | Xe tăng bộ binh hạng nhẹ |
Nơi chế tạo | Liên Xô |
Lược sử hoạt động | |
Phục vụ | 1931–1945 ở Liên Xô 1936–1953 ở Tây Ban NHa 1940–1961 ở Phần Lan 1938–1949 ở Trung Quốc |
Sử dụng bởi | Liên Xô Tây Ban Nha thời Franco Phần Lan Trung Hoa Dân Quốc Thổ Nhĩ Kỳ Đức Quốc xã Vương quốc România Vương quốc Hungary Vương quốc Afghanistan |
Trận | Thế chiến II Nội chiến Tây Ban Nha Chiến tranh Trung-Nhật Chiến tranh biên giới Xô – Nhật Liên Xô tấn công Ba Lan Chiến tranh Mùa Đông Anh-Xô tấn công Iran Chiến tranh Xô–Nhật Nội chiến Trung Quốc |
Lược sử chế tạo | |
Người thiết kế | Vickers-Armstrongs, OKMO của Nhà máy ''Bolshevik'' ở Leningrad |
Năm thiết kế | 1928–1931 |
Nhà sản xuất | Nhà máy số 174 mang tên K.E. Voroshilov ở Leningrad, Nhà máy Máy kéo Stalingrad |
Giai đoạn sản xuất | 1931–41 |
Số lượng chế tạo | 10.300 xe tăng và 1.701 phương tiện khác[1] |
Thông số (T-26 đời 1933[2]) | |
Khối lượng | 9,6 tấn |
Chiều dài | 4,65 mét |
Chiều rộng | 2,44 m |
Chiều cao | 2,44 m |
Kíp chiến đấu | 3 (trưởng xe, xạ thủ, lái xe) |
Phương tiện bọc thép | gầm: 6 mm, nóc: 6-10 mm, thân và tháp pháo: 15 mm |
Vũ khí chính | Pháo 45 mm 20K đời 1932/34 (122 phát) |
Vũ khí phụ | Súng máy 7,62 mm Degtyaryov (2.961 phát) |
Động cơ | Động cơ xăng 4-cylinder 6.600 cc 90 hp at 2,100 rpm |
Công suất/trọng lượng | 9,38 hp/t |
Hệ truyền động | Hộp số 5 bậc |
Khoảng sáng gầm | 380 mm |
Sức chứa nhiên liệu | 290 lít [có thùng xăng dự trữ 110 lít] |
Tầm hoạt động | 220-240 km trên đường tốt; 130-140 km trên mặt đất khác |
Tốc độ | 31,1 km/h trên đường tốt; 11 km/h trên đường trung bình; 16 km/h trên mặt đất khác |
T-26 được sản xuất với số lượng lớn hơn bất kỳ xe tăng nào khác của thời kỳ này, với hơn 11.000 chiếc.[4] Trong những năm 1930, Liên Xô phát triển khoảng 53 biến thể của T-26, bao gồm cả xe chiến đấu khác dựa trên khung gầm của nó. Hai mươi ba trong số này đã được sản xuất hàng loạt.[5]
T-26 đã được sử dụng rộng rãi trong quân đội của Tây Ban Nha, Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. Các quân đội Đức, Phần Lan, Rumani và Hungary cũng sử dụng các xe tăng T-26 mà họ thu được từ các trận đánh.[6]
T-26 là xe tăng quan trọng nhất của cuộc Nội chiến Tây Ban Nha và đóng một vai trò quan trọng trong Chiến dịch hồ Khasan vào năm 1938 cũng như trong Chiến tranh Mùa Đông. T-26 đáng tin cậy, bảo dưỡng rất đơn giản, và thiết kế của nó được liên tục hiện đại hóa trong thời kỳ 1931 đến 1940.
T-26 là xe tăng có số lượng nhiều nhất trong lực lượng thiết giáp của Hồng quân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc hồi tháng 6 năm 1941.[7] Tuy nhiên, với mục đích thiết kế là xe tăng hạng nhẹ, hỏa lực và vỏ giáp của xe không thể đấu lại với những xe tăng hạng trung ra đời vào cuối thập niên 1930 như T-34, Panzer III. Trong các trận đấu tăng, T-26 có thể đọ lại các xe tăng hạng nhẹ của Đức như Panzer II, nhưng dễ dàng bị hạ bởi xe tăng hạng trung đối phương như Panzer III, Panzer IV. Do vậy, không có các phiên bản mới của T-26 đã được phát triển sau năm 1940.
Mặc dù gần như đã lỗi thời vào đầu Chiến tranh thế giới thứ hai, lần cuối người ta thấy Liên Xô sử dụng xe tăng T-26 là hồi tháng 8 năm 1945, tại Mãn Châu.[8]