Tiếng Khiết Đan
From Wikipedia, the free encyclopedia
Tiếng Khiết Đan hay tiếng Khất Đan ( khi viết bằng đại tự Khiết Đan và khi viết bằng tiểu tự Khiết Đan, Khitai;[3] tiếng Trung: phồn thể 契丹語, Qìdānyǔ), cũng gọi là tiếng Liêu, là một ngôn ngữ đã mất từng được nói bởi người Khiết Đan (thế kỷ 4-13). Nó là ngôn ngữ chính thức của nhà Liêu (907–1125) và Tây Liêu (1124–1218).
Tiếng Khiết Đan | |
---|---|
Sử dụng tại | Trung Quốc, Mông Cổ |
Khu vực | Bắc Trung Quốc |
Mất hết người bản ngữ vào | khoảng 1243 (Gia Luật Sở Tài, người cuối cùng mà ta biết là có thể nói và viết tiếng Khiết Đan) |
Phân loại | Liên Mongol?[1]
|
Hệ chữ viết | Đại tự Khiết Đan và tiểu tự Khiết Đan |
Mã ngôn ngữ | |
ISO 639-3 | zkt |
Glottolog | kita1247 [2] |
Tiếng Khiết Đan có vẻ có quan hệ phả hệ với các ngôn ngữ Mongol;[4] Juha Janhunen phát biểu, "Cái ý tưởng đang nhận được ủng hộ là rằng tiếng Khiết Đan là một ngôn ngữ mà ở một số khía cạnh hết sức khác biệt với các ngôn ngữ Mongol đã ghi nhận trong lịch sử. Nếu điều này được chứng minh, tiếng Khiết Đan quả thực nên được phân loại như một ngôn ngữ Liên Mongol."[1]
Tiếng Khiết được viết bằng hai hệ chữ khác nhau là đại tự Khiết Đan và tiểu tự Khiết Đan.[1] Bộ tiểu tự là một hệ chữ âm tự (như Hiragana và Katakana của tiếng Nhật) và đã được sử dụng cho tới khi tiếng Nữ Chân của triều đại nhà Kim thế chỗ nó năm 1191.[5] Bộ đại tự là một hệ văn tự từ phù (như chữ Hán) và có lẽ từng được dùng bởi những nhóm dân tộc Liên Mongol khác như Thác Bạt.